Lịch sử Việt Nam – Doisongamthuc.com https://doisongamthuc.com Wed, 24 Sep 2025 00:45:25 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/news/2025/08/doisongamthuc.svg Lịch sử Việt Nam – Doisongamthuc.com https://doisongamthuc.com 32 32 Giữ tiếng Việt qua 4 thế hệ: Một gia đình Lào nuôi dưỡng văn hoá quê hương https://doisongamthuc.com/giu-tieng-viet-qua-4-the-he-mot-gia-dinh-lao-nuoi-duong-van-hoa-que-huong/ Wed, 24 Sep 2025 00:45:24 +0000 https://doisongamthuc.com/giu-tieng-viet-qua-4-the-he-mot-gia-dinh-lao-nuoi-duong-van-hoa-que-huong/

Ở thủ đô Vientiane, Lào, một gia đình nhỏ đã âm thầm giữ gìn và truyền lại tiếng Việt qua 4 thế hệ, như một dòng chảy văn hóa không bao giờ cạn. Đó là gia đình bà Nguyễn Thị Nương, người phụ nữ gốc Việt 97 tuổi, với những nỗ lực không ngừng nghỉ để bảo tồn tiếng mẹ đẻ và văn hóa Việt nơi xứ người.

Bà Nương sinh ra và lớn lên trong một thời kỳ đầy biến động, cùng gia đình định cư tại Lào và xây dựng cuộc sống mới. Dù sống giữa một cộng đồng đa văn hóa, nhưng trong căn nhà nhỏ của bà, tiếng Việt vẫn luôn được nói và yêu thương. “Các cháu đi học thì tự nhiên biết tiếng Lào nhưng về nhà là phải nói tiếng Việt. Bố mẹ, vợ chồng, con cái, ai cũng phải nói tiếng Việt hết. Không cho nói tiếng Lào trong nhà, thế nên các cháu không đứa nào nói ngọng. Biết hết tiếng Việt!” – bà Nương chia sẻ với giọng nói chậm rãi nhưng đầy tự hào.

Không chỉ tập trung vào việc giữ gìn ngôn ngữ, gia đình bà Nương còn kiên trì bảo tồn văn hóa Việt qua những phong tục, tập quán truyền thống. Từ những bữa ăn gia đình với lời mời “Mời ông bà, mời bố mẹ…” đến những nghi lễ cổ truyền như giỗ, Tết hay cả Tết Đoan Ngọ mồng 5/5 với tục “giết sâu bọ,” mọi tập tục đều được giữ vẹn nguyên.

Ở tuổi 97, bà Nương vẫn minh mẫn và sống trong tình yêu thương của con cháu. Con cháu bà không chỉ học được tiếng Việt mà còn học cả cách sống, cách làm người theo đúng cốt cách người Việt Nam. “Tôi gìn giữ tiếng Việt vì đó là tiếng của mẹ đẻ, của quê hương, đất nước. Xa quê hương, mình càng không thể để mất” – bà nói. Sự kiên định ấy đã được truyền lại qua các thế hệ như một dòng chảy không bao giờ cạn.

Cháu ngoại của bà, chị Phạm Thu Hương, cũng chia sẻ về việc gia đình chị đã ở Lào 4 đời. Ông bà ngoại và cha mẹ chồng của chị là bạn chiến đấu với nhau từ thời chiến tranh. Các con chị đều nói và viết được tiếng Việt. “Muốn gìn giữ gốc tiếng Việt cho thế hệ trẻ, mọi người trong gia đình đều phải có quyết tâm lớn, giữ gìn truyền thống, phong tục và dành thời gian dài vun đắp” – chị Hương nói.

Anh Trần Viết Thanh Phong, con trai chị Hương và là chắt ngoại của bà Nương, cho biết anh biết nói tiếng Việt từ khi còn nhỏ. Ba mẹ anh dạy rằng mình là người Việt thì phải gìn giữ văn hóa và tiếng nói của người Việt. “Trong thời đại toàn cầu hóa, việc biết nhiều thứ tiếng là một lợi thế nhưng giữ được cái gốc mới là điều quan trọng nhất. Phải nhớ mình là người Việt và nói được tiếng Việt” – anh Phong chia sẻ.

Gia đình bà Nương không phải là trường hợp duy nhất nhưng là một trong những ví dụ điển hình tiêu biểu về việc gìn giữ tiếng Việt nơi xứ người. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, văn hóa và ngôn ngữ dễ dàng bị hòa tan thì việc một gia đình có 4 thế hệ sinh sống tại Lào nhưng vẫn giữ được sự tinh anh, chuẩn mực của tiếng Việt là điều vô cùng đáng quý.

Bởi ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp mà còn là cầu nối tâm hồn, là nơi lưu giữ ký ức, văn hóa và cội nguồn dân tộc. Câu chuyện về gia đình bà Nguyễn Thị Nương ở Vientiane là một bản nhạc đẹp về tình yêu tiếng Việt, tình yêu văn hóa cội nguồn, và là minh chứng sống động cho sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt, được nuôi dưỡng bằng tình yêu và ý chí qua từng thế hệ.

]]>
Thanh Hóa đầu tư 81,6 tỷ đồng bảo tồn Khu di tích Lam Kinh https://doisongamthuc.com/thanh-hoa-dau-tu-816-ty-dong-bao-ton-khu-di-tich-lam-kinh/ Tue, 16 Sep 2025 03:46:17 +0000 https://doisongamthuc.com/thanh-hoa-dau-tu-816-ty-dong-bao-ton-khu-di-tich-lam-kinh/

Địa phương Thanh Hóa đang triển khai dự án tu bổ và tôn tạo Khu di tích quốc gia đặc biệt Lam Kinh, với mục tiêu bảo tồn và phát huy giá trị của khu di tích này. Dự án do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa làm chủ đầu tư, nhằm tôn vinh những giá trị lịch sử, văn hóa và kiến trúc nghệ thuật của triều đại Hậu Lê đối với lịch sử dân tộc.

Thông tin về dự án cho biết, khu di tích quốc gia đặc biệt Lam Kinh sẽ được tu bổ và tôn tạo với nhiều hạng mục, bao gồm việc phục hồi và tôn tạo 4 tòa Thái miếu (số 01, 02, 08, 09), Đền thờ Bà Hàng Dầu và xây dựng cổng vào Khu di tích. Tổng mức đầu tư của dự án lên tới gần 81,6 tỷ đồng, với thời gian thực hiện từ năm 2025 đến năm 2027.

Được biết, dự án này sẽ sử dụng vốn từ ngân sách Trung ương và ngân sách tỉnh, theo Nghị quyết số 324/NQ-HĐND ngày 19/11/2022 của Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Mục tiêu của dự án không chỉ là bảo tồn và tôn tạo di tích, mà còn hướng đến xây dựng khu di tích trở thành điểm du lịch văn hóa – lịch sử trọng điểm của quốc gia.

Khi hoàn thành, dự án sẽ góp phần phục vụ nhân dân và du khách, thúc đẩy phát triển du lịch và kinh tế – xã hội của địa phương. Việc tu bổ và tôn tạo Khu di tích quốc gia đặc biệt Lam Kinh sẽ giúp phát huy giá trị của khu di tích, đồng thời quảng bá những giá trị lịch sử, văn hóa và kiến trúc nghệ thuật của triều đại Hậu Lê đối với lịch sử dân tộc.

Trước đó, vào tháng 11/2022, Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã thông qua Nghị quyết số 324/NQ-HĐND về việc phê duyệt chủ trương đầu tư dự án tu bổ và tôn tạo Khu di tích quốc gia đặc biệt Lam Kinh. Dự án này là một phần trong nỗ lực của tỉnh Thanh Hóa nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của các di tích lịch sử trên địa bàn.

]]>
Tuyên ngôn Độc lập – Bản cáo trạng chế độ thực dân và lời tuyên thệ của dân tộc https://doisongamthuc.com/tuyen-ngon-doc-lap-ban-cao-trang-che-do-thuc-dan-va-loi-tuyen-the-cua-dan-toc/ Wed, 30 Jul 2025 04:17:46 +0000 https://doisongamthuc.com/tuyen-ngon-doc-lap-ban-cao-trang-che-do-thuc-dan-va-loi-tuyen-the-cua-dan-toc/

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trước hàng chục vạn đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, chính thức khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Sự kiện lịch sử này không chỉ đánh dấu sự cáo chung của chế độ phong kiến – thực dân trên đất nước ta, mà còn mở ra một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Nhân dân làm chủ và đất nước bước vào thời đại cách mạng hiện đại hóa.

Từ mùa thu độc lập đến mùa thu đổi mới
Từ mùa thu độc lập đến mùa thu đổi mới

Từ một đất nước chịu thân phận nô lệ của chủ nghĩa thực dân ròng rã 80 năm, chỉ sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám không lâu, Việt Nam đã “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” bằng bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9 với tuyên bố đanh thép: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Bài 1: Cách mạng trưởng thành từ trong gian khó
Bài 1: Cách mạng trưởng thành từ trong gian khó

Ngay trong phần mở đầu của bản Tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn những tinh thần cốt lõi của hai bản tuyên ngôn nổi tiếng thế giới: Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Đây không chỉ là một lựa chọn mang tính đối ngoại khéo léo, mà còn là khẳng định Việt Nam đang thực thi một quyền cơ bản – quyền thiêng liêng của con người, quyền không thể chối cãi của mọi dân tộc: Quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.

Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) sẽ thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Thanh tra Chính phủ về thanh tra chuyên đề công trình, dự án có khó khăn, vướng mắc, chậm tiến độ, tồn đọng kéo dài, hiệu quả thấp, nguy cơ gây thất thoát, lãng phí trên địa bàn Thành phố.
Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) sẽ thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Thanh tra Chính phủ về thanh tra chuyên đề công trình, dự án có khó khăn, vướng mắc, chậm tiến độ, tồn đọng kéo dài, hiệu quả thấp, nguy cơ gây thất thoát, lãng phí trên địa bàn Thành phố.

Không chỉ khẳng định lẽ phải của dân tộc mình, Tuyên ngôn còn là lời buộc tội hùng hồn đối với chế độ thực dân Pháp đã gây bao đau thương, tàn phá, bóc lột ở Việt Nam hơn 80 năm qua. Từng dòng trong bản tuyên ngôn như những nhát cuốc dứt khoát vạch lên mặt đất đã từng bị giày xéo, tuyên bố trước nhân loại rằng: Chúng tôi thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Xây dựng Thủ đô đẹp giàu
Xây dựng Thủ đô đẹp giàu

Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là một văn kiện lịch sử – nó là một bản cáo trạng đanh thép, một lời tuyên thệ trước nhân dân và thế giới, một tuyên bố mở ra thời đại mới cho dân tộc Việt Nam.

Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám không đơn thuần là một nghi thức chính trị. Đó là lời tuyên bố chủ quyền giữa bối cảnh đầy biến động khi các thế lực quốc tế đang nhăm nhe “chia phần” bán đảo Đông Dương. Việt Nam cần một danh tính rõ ràng, một tiếng nói chính thức để bước vào vũ đài quốc tế với tư cách một quốc gia độc lập.

Từ thời khởi nghĩa Lam Sơn đến phong trào Cần Vương, từ Trần Hưng Đạo đến Nguyễn Trãi, từ Nguyễn Huệ đến Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh – tinh thần yêu nước của Việt Nam luôn bền bỉ chảy suốt chiều dài lịch sử. Nhưng chỉ đến ngày 2/9/1945, tinh thần đó mới được “quy tụ” thành một lời khẳng định chính danh: Việt Nam là một nước độc lập. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc tự do.

Trong bối cảnh thế giới có những chuyển biến khó lường, sự tính toán địa chính trị của các nước lớn, hành vi bá quyền, xâm chiếm lãnh thổ; chiến tranh thương mại; chiến tranh thông tin, an ninh mạng làm cho cấu trúc an ninh của mỗi quốc gia bước sang một giai đoạn khác. Song bất luận hoàn cảnh nào thì tinh thần “không có gì quý hơn độc lập tự do” vẫn là ngọn cờ dẫn đường.

Không chỉ trong lĩnh vực quốc phòng – an ninh, tinh thần Tuyên ngôn còn được kế thừa và lan tỏa trong cả phát triển kinh tế – xã hội. Một đất nước độc lập không thể chỉ dừng lại ở chủ quyền lãnh thổ, mà còn là chủ quyền số, chủ quyền dữ liệu, chủ quyền văn hóa và trí tuệ. Khát vọng hùng cường ngày nay chính là sự tiếp nối tự nhiên của kỷ nguyên mà Tuyên ngôn Độc lập đã mở ra.

Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là ký ức lịch sử mà là nguồn sức mạnh tinh thần, là lời cam kết thiêng liêng của cả dân tộc, là kim chỉ nam để đất nước tiếp tục vươn mình đi lên trong thế giới biến động hôm nay.

Ngày nay, trong hành trình dựng xây đất nước hiện đại, hội nhập sâu rộng với thế giới, lời thề độc lập ấy vẫn còn nguyên giá trị. Chúng ta không chỉ giữ gìn độc lập bằng súng đạn, mà còn bằng khoa học, giáo dục, sáng tạo và tinh thần đổi mới. Mỗi công dân đều đang là người kế tục di sản vĩ đại tinh thần cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh mùng 2/9 bằng hành động cụ thể trong đời sống hàng ngày, bằng việc làm tử tế, bằng nỗ lực không ngừng để làm rạng danh Tổ quốc.

]]>