Việc làm – Doisongamthuc.com https://doisongamthuc.com Thu, 11 Sep 2025 00:45:16 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/news/2025/08/doisongamthuc.svg Việc làm – Doisongamthuc.com https://doisongamthuc.com 32 32 Người thương binh làm nên ‘đại gia’ đá xây dựng https://doisongamthuc.com/nguoi-thuong-binh-lam-nen-dai-gia-da-xay-dung/ Thu, 11 Sep 2025 00:45:14 +0000 https://doisongamthuc.com/nguoi-thuong-binh-lam-nen-dai-gia-da-xay-dung/

Ông Đinh Minh Đức, sinh năm 1952, là một người đàn ông kiên cường và quyết tâm, đã trải qua những ngày tháng chiến đấu ác liệt tại chiến trường Quảng Trị và bảo vệ biên giới phía Tây Nam của Tổ quốc. Sau nhiều năm gắn bó tuổi thanh xuân nơi chiến trường, ông đã trở về quê hương và không chịu khuất phục trước bệnh tật, đói nghèo. Thay vào đó, ông đã vươn lên làm giàu cho bản thân và quê hương.

Công ty TNHH Liễu Lựu do ông Đinh Minh Đức làm giám đốc chuyên cung cấp đá xây dựng - Ảnh: X.V
Công ty TNHH Liễu Lựu do ông Đinh Minh Đức làm giám đốc chuyên cung cấp đá xây dựng – Ảnh: X.V

Thanh xuân ở chiến trường

Năm 1970, khi vừa tròn 18 tuổi, Đinh Minh Đức đã tạm gác bút nghiên tình nguyện lên đường nhập ngũ, tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sau 8 tháng huấn luyện, đơn vị của ông dự kiến tăng cường vào chiến trường miền Nam. Tuy nhiên, khi hành quân đến Quảng Trị, đơn vị lại được lệnh tham gia chiến dịch Đường 9 – Nam Lào.

Ông Đức kể lại những ngày tháng chiến đấu: “Ngày đó, đơn vị của chúng tôi chủ yếu chiến đấu trong rừng nên nhiều người bị sốt rét. Trong khó khăn, chúng tôi vẫn kiên cường bám rừng, bám trận địa đánh trả những cuộc phản kích bằng không quân của giặc Mỹ”. Cuối năm 1971, ông và nhiều đồng đội bị sốt rét nên phải chuyển ra Bắc điều trị, củng cố lực lượng cho một đơn vị khác.

Năm 1972, người lính trẻ Đinh Minh Đức tiếp tục quay lại chiến trường Quảng Trị, được biên chế vào Cục Hậu cần, Mặt trận B5. Nhiệm vụ của ông là đưa đón lực lượng dân công hỏa tuyến, bộ đội qua lại địa bàn, làm công tác giao liên. Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng, góp phần đưa người, phương tiện, thông tin ra vào chiến trường an toàn.

Ông Đức nhớ lại: “Có lần, tôi nhận được thông tin địch sẽ ném bom vào một đơn vị vận tải vừa vận chuyển quân nhu, đạn dược đang tập kết trên địa bàn nên tức tốc lên đường báo tin. Đêm đó, một mình tôi đi trong rừng, vượt qua nhiều con suối. Có những lúc địch ném bom dọc đường nên phải tắt đèn, nhìn lên trời cắt hướng mà đi”.

Sau nhiều năm gắn bó tuổi thanh xuân nơi chiến trường, năm 1988, ông Đức quyết định phục viên.

Khởi nghiệp trên quê hương

Trở về quê hương, cuộc sống gia đình ông Đức gặp muôn vàn khó khăn nhưng người lính năm xưa vẫn không chùn bước. Ông làm thuê nhiều nghề khác nhau để lo cho gia đình. Ông Đức kể: “Tôi về làng chỉ với bộ quần áo lính, trong tay không có đồng vốn nào. Con còn nhỏ, cha mẹ già yếu nên cuộc sống vô cùng cơ cực”.

Thấy địa phương có trữ lượng đá xây dựng lớn trong khi người dân phải đi mua đá ở nơi khác nên ông đã mạnh dạn vay vốn ngân hàng và người thân để thành lập công ty khai thác đá.

Năm 2008, Công ty TNHH Liễu Lựu, chuyên khai thác và chế biến đá xây dựng do ông Đức làm giám đốc được thành lập. Ban đầu, vốn ít, máy móc lạc hậu, thị trường tiêu thụ bấp bênh nên công ty gặp rất nhiều khó khăn.

Tuy nhiên, ông Đức đã kiên trì tìm khách hàng, giữ chữ tín trong kinh doanh, dần dần công ty có chỗ đứng trên thị trường. Đến nay, công ty của ông đã được cấp phép khai thác, chế biến đá trên diện tích gần 4ha. Hệ thống máy móc được đầu tư hiện đại, gồm: Một máy chế biến đá có công suất 75 tấn/giờ, 4 máy xúc đào, 1 máy xúc lật, 2 ô tô tải và một giàn khoan đá… với mức đầu tư trên 4 tỉ đồng.

Hiện, công ty của ông đáp ứng khoảng 40% đá xây dựng trên địa bàn huyện Minh Hóa, doanh thu đạt khoảng 3 tỉ đồng, mang lại lợi nhuận cho gia đình ông khoảng 600 triệu đồng/năm. Không chỉ mang lại thu nhập ổn định cho gia đình, công ty của ông Đức còn tạo việc làm thường xuyên cho 15 lao động địa phương với mức lương bình quân 10 triệu đồng/người/tháng.

Ông Đức đã nhận được nhiều giấy khen, bằng khen của các cấp, ngành về thành tích xuất sắc trong sản xuất, kinh doanh giỏi, thực hiện tốt nghĩa vụ thuế, đóng góp tích cực cho phong trào xây dựng nông thôn mới ở địa phương.

]]>
Thị trường lao động陷入 trạng thái giằng co https://doisongamthuc.com/thi-truong-lao-dong%e9%99%b7%e5%85%a5-trang-thai-giang-co/ Mon, 25 Aug 2025 05:36:13 +0000 https://doisongamthuc.com/thi-truong-lao-dong%e9%99%b7%e5%85%a5-trang-thai-giang-co/

Thị trường lao động Việt Nam đang phải đối mặt với một nghịch lý rõ ràng: hàng nghìn người lao động bị sa thải trong khi nhiều doanh nghiệp vẫn đang thiếu nhân sự nghiêm trọng. Một khảo sát gần đây của Vieclam24h cho thấy có gần 3.000 người tham gia đã chia sẻ về tình trạng tâm lý của người lao động và sự gián đoạn kết nối giữa cung và cầu lao động trên thị trường.

Trong nửa đầu năm 2025, các ngành công nghệ và bán lẻ trên toàn cầu đã chứng kiến sự cắt giảm lao động đáng kể, với 72.000 lao động trong ngành công nghệ và hơn 64.000 việc làm trong ngành bán lẻ bị cắt giảm. Tại Việt Nam, hơn 2.500 nhân sự trong ngành ngân hàng bị tinh giản, và nhiều khu công nghiệp cũng báo cáo về việc cắt giảm quy mô lớn trong các ngành dệt may, da giày, và điện tử. Những con số này cho thấy làn sóng sa thải (layoff) đang trở thành xu hướng toàn cầu, không chỉ giới hạn trong các đợt khủng hoảng ngắn hạn mà đã trở thành một phần của chiến lược dài hạn của nhiều doanh nghiệp.

Tâm lý bất ổn trong người lao động đã làm gián đoạn mối liên kết giữa họ và doanh nghiệp. Gần 43,3% người lao động cho biết họ đang phải gánh thêm công việc, trong khi 42,8% lo sợ sẽ là người tiếp theo bị sa thải. Gần 30% người lao động đã mất niềm tin vào tổ chức, và 27,3% cảm thấy giảm động lực làm việc.

Báo cáo cũng chỉ ra rằng 77,4% doanh nghiệp được khảo sát cho biết tình hình tuyển dụng đang gặp khó khăn hơn so với cùng kỳ năm trước. Khó khăn nhất là nhóm nhân viên chính thức và thực thi (84,7%), tiếp theo là nhóm chuyên viên, cấp trung và trưởng nhóm (66,1%). Trong khi đó, 72,7% người lao động mất việc đã quay lại tìm việc, nhưng chỉ 24,7% tìm được công việc phù hợp trong thời gian ngắn.

Lao động lớn tuổi và lao động phổ thông đang phải chịu thiệt thòi nặng nề. Nhóm tuổi 45-54 là đối tượng bị cắt giảm nhiều nhất với tỷ lệ 9,5%, nhưng chỉ có 4,1% được giữ lại. Nhóm trên 55 tuổi gần như không còn hiện diện trong lực lượng lao động được giữ lại. Lực lượng lao động trẻ cũng thiếu cơ hội để gia nhập thị trường, với chỉ 23,4% doanh nghiệp có kế hoạch tuyển dụng sinh viên mới tốt nghiệp hoặc thực tập sinh.

Kỳ vọng lệch pha giữa người lao động và doanh nghiệp đang khiến cung và cầu lao động càng khó gặp nhau. Người lao động đang tìm kiếm sự ổn định và các điều kiện làm việc có lợi hơn, trong khi doanh nghiệp lại ưu tiên các biện pháp như tăng kênh tuyển dụng và truyền thông thương hiệu nhà tuyển dụng.

Dù vậy, báo cáo cũng chỉ ra những tín hiệu tích cực từ người lao động và doanh nghiệp Việt. Thị trường đang hồi phục chậm và mang tính chọn lọc, nhưng 56,2% doanh nghiệp cho biết sẽ mở rộng quy mô nhân sự trong 6 tháng tới. Người lao động Việt Nam thể hiện tinh thần tích cực và khả năng thích nghi nổi bật so với xu hướng chung trên thế giới.

Để thu hẹp khoảng cách giữa người lao động và doanh nghiệp, cả hai phía cần chủ động thay đổi. Khi có sự lắng nghe và điều chỉnh từ cả hai bên, cung và cầu lao động mới có thể vận hành như một thể thống nhất thay vì tiếp tục đứng ở hai đầu không gặp nhau.

]]>
Thái Nguyên: Phát triển kinh tế – xã hội cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi https://doisongamthuc.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-cho-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/ Tue, 19 Aug 2025 06:30:31 +0000 https://doisongamthuc.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-cho-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/

Thái Nguyên – một tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam – đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Với nhiều giải pháp đồng bộ và hiệu quả, tỉnh đã cải thiện đáng kể hạ tầng kỹ thuật, văn hóa – xã hội thiết yếu như điện, đường, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa tại các bản làng.

Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.
Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.

Những nỗ lực này không chỉ nâng cao mức sống của người dân mà còn làm thay đổi căn bản tập quán canh tác và bộ mặt bản làng. Các bản làng dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên nay đã có những gam màu tươi sáng với những ngôi nhà mới xây dựng, đường sá được mở rộng và trải bê tông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu và phát triển kinh tế. Việc đầu tư có trọng tâm trọng điểm, phù hợp với điều kiện, tiềm năng thế mạnh, phong tục tập quán của đồng bào đã thu được kết quả tích cực.

Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.
Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.

Công tác vận động quần chúng phát huy quyền làm chủ, sự tham gia chủ động của cộng đồng và người dân đã khơi dậy tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm sâu, khoảng cách về mức sống so với bình quân chung của tỉnh từng bước thu hẹp. Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa của các vùng dân tộc có bước phát triển mới. Tỉnh Thái Nguyên cũng đẩy mạnh việc trang bị kiến thức về khoa học kỹ thuật, hỗ trợ vật tư phân bón, nguồn cây, con giống chuyển đổi cây trồng vật nuôi, phát triển ngành nghề, làng nghề truyền thống.

Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.
Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.

Hệ thống hạ tầng viễn thông được xây dựng tạo điều kiện cho bà con tiếp cận các nền tảng công nghệ số. Một số sản phẩm nông nghiệp của tỉnh đã có giá trị thương phẩm cao, trong đó chè là cây trồng chủ lực. Nhiều địa phương đã tập trung phát triển và đã cho sản lượng, giá trị thương phẩm cao với các loại cây trồng như na, bưởi, quế…

Sản phẩm truyền thống như dệt, may trang phục dân tộc, mật ong, gạo nếp vải, cốm, miến dong, rượu men lá… đã đáp ứng yêu cầu về chất lượng, thị hiếu người tiêu dùng và đã đạt tiêu chuẩn OCOP. Bên cạnh những thành tựu, vẫn còn một số khó khăn và thách thức mà tỉnh cần phải vượt qua.

Các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi địa hình trải rộng, mật độ dân cư không tập trung, trình độ sản xuất còn dựa nhiều vào yếu tố tự nhiên, phương thức canh tác giản đơn, giá trị kinh tế thấp, ít cơ hội tiếp cận việc làm phi nông nghiệp. Cơ sở hạ tầng nhiều xã phía Bắc của tỉnh chưa được đầu tư hoàn thiện.

Cơ chế, chính sách chưa đủ hấp dẫn thu hút doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế mạnh đầu tư vào công nghiệp chế biến, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị tại các xã vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên vẫn được giữ gìn và phát huy. Những nét đẹp mang giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào như ngôn ngữ, trang phục truyền thống, phong tục tập quán, nghi lễ tín ngưỡng, ẩm thực, dân ca dân vũ được các cấp ủy, chính quyền tạo điều kiện cho bà con bảo tồn và phát huy.

Mới đây, tỉnh Thái Nguyên đã ban hành đề án phát triển du lịch cộng đồng với nhiều triển vọng về các điểm đến mới và tạo thêm việc làm cho người dân. Làng du lịch sinh thái nhà sàn Thái Hải, Làng du lịch cộng đồng xóm Mỏ Gà, Làng văn hóa dân tộc bản Quyên… có thể coi là hình mẫu để nâng cao, nhân rộng.

Trong thời gian tới, tỉnh cần tiếp tục quan tâm và có những giải pháp hiệu quả hơn nữa để phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi một cách bền vững.

]]>
Canh bạc đổi đời từ trái mãng cầu trở thành trà OCOP https://doisongamthuc.com/canh-bac-doi-doi-tu-trai-mang-cau-tro-thanh-tra-ocop/ Sun, 10 Aug 2025 04:19:02 +0000 https://doisongamthuc.com/canh-bac-doi-doi-tu-trai-mang-cau-tro-thanh-tra-ocop/

Khởi đầu từ một vùng đất màu mỡ ở miền Tây, anh Nguyễn Tấn Đậu đã biến những trái mãng cầu thường bị xem là không đủ tiêu chuẩn thành một sản phẩm trà độc đáo mang thương hiệu ‘2 Đậu’. Câu chuyện của anh Đậu là một minh chứng sinh động cho việc biến những điều tưởng chừng như không thể thành hiện thực, đồng thời mở ra cánh cửa cơ hội cho nhiều người dân địa phương.

Anh Đậu nâng cao giá trị cho trái mãng cầu xiêm bằng cách chế biến làm trà.
Anh Đậu nâng cao giá trị cho trái mãng cầu xiêm bằng cách chế biến làm trà.

Anh Đậu bắt đầu bằng việc trồng mãng cầu, một loại cây ăn quả phổ biến ở miền Tây. Tuy nhiên, thay vì chỉ bán quả mãng cầu tươi, anh đã tìm ra cách để chế biến chúng thành trà mãng cầu, một sản phẩm chưa phổ biến vào thời điểm đó. Với sự kiên trì và lòng đam mê, anh đã biến ý tưởng của mình thành hiện thực.

Mỗi tháng, cơ sở của anh Đậu cung cấp ra thị trường khoảng 100 kg trà mãng cầu, mang về thu nhập 30-35 triệu đồng sau khi trừ chi phí.
Mỗi tháng, cơ sở của anh Đậu cung cấp ra thị trường khoảng 100 kg trà mãng cầu, mang về thu nhập 30-35 triệu đồng sau khi trừ chi phí.

Trà mãng cầu của anh Đậu nhanh chóng được người tiêu dùng đón nhận nhờ vào hương vị đặc trưng và lợi ích sức khỏe mà nó mang lại. Thương hiệu ‘2 Đậu’ trở nên nổi tiếng không chỉ ở miền Tây mà còn trên cả nước. Mỗi tháng, anh Đậu thu về hàng chục triệu đồng từ việc bán trà mãng cầu, tạo ra một nguồn thu nhập ổn định và đáng kể.

Không chỉ thành công trong việc kinh doanh, anh Đậu còn tạo việc làm cho nhiều người dân địa phương. Việc sản xuất trà mãng cầu đòi hỏi sự tham gia của nhiều người, từ việc thu hoạch mãng cầu đến chế biến và đóng gói sản phẩm. Điều này không chỉ giúp tăng thu nhập cho gia đình anh Đậu mà còn đóng góp vào sự phát triển kinh tế của cộng đồng.

Anh Đậu cũng là một tấm gương sáng trong việc lan tỏa tinh thần khởi nghiệp sáng tạo trong cộng đồng. Câu chuyện thành công của anh đã khuyến khích nhiều người dân địa phương mạnh dạn khởi nghiệp, tìm kiếm cơ hội và biến ý tưởng của mình thành hiện thực. Sự thành công của thương hiệu ‘2 Đậu’ đã chứng minh rằng với sự đam mê, kiên trì và sáng tạo, bất kỳ ai cũng có thể đạt được thành công.

Hiện tại, trà mãng cầu ‘2 Đậu’ đã có mặt trên thị trường cả nước, với số lượng lớn và uy tín cao. Để biết thêm thông tin về sản phẩm, vui lòng truy cập vào trang web https://2dau.vn để có thông tin chính xác và cập nhật nhất.

]]>